List các loại cây Trang trí nội thất, ngoại thất phổ biến nhất (liên tục update)

plantvn-homepage-footer-banner-1-1024x781.jpg

Phải nói là có thể lên tới hàng trăm loại cây Trang trí nội thất ngoại thất phổ biến hiện nay, và chúng đang ngày một tăng lên do nhu cầu sử dụng cây xanh trang trí nhà cửa văn phòng ngày một trở nên phổ biến

Sau đây Shop cây online Plant.vn giới thiệu (và liên tục cập nhất) List các loại cây Trang trí nội thất, ngoại thất phổ biến nhất (theo tứ tự ABC) và được tham khảo chủ yếu từ nguồn Wikipedia.

1. Cây ngọc ngân (Cây Aglaonema)

Cây Ngọc ngân Thuộc họ ráy.

Aglaonema là một chi thực vật có hoa trong họ Arum, họ Ráy. Chúng có nguồn gốc từ các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á và New Guinea. Chúng thường được biết đến với tên gọi Chinese Evergreen

Cây ngọc ngân Aglaonema 1

2. Cây môn (Cây Alocasia)

 

Cây môn thuộc họ ráy

Alocasia là một chi thực vật có hoa lâu năm lá rộng, thân rễ hoặc thân củ thuộc họ ráy (Araceae). Có 97 loài được chấp nhận có nguồn gốc từ châu Á nhiệt đới và cận nhiệt đới và Đông Úc. Trên khắp thế giới, nhiều người trồng trọt rộng rãi trồng nhiều loại cây lai và giống cây trồng.

Cây môn Alocasia

3. Cây Lô hội (Aloe)

Cây lô hội thuộc họ Asphodelaceae

Cây lô hội, còn được viết là Aloë, là một chi có hơn 550 loài thực vật mọng nước có hoa. Loài được biết đến rộng rãi nhất là Lô hội, hay “lô hội thực thụ”. Nó được gọi là vì nó được trồng làm nguồn tiêu chuẩn cho các mục đích dược phẩm khác nhau. Các loài khác, chẳng hạn như Aloe ferox, cũng được trồng hoặc thu hoạch từ tự nhiên cho các ứng dụng tương tự. Hệ thống APG IV (2016) xếp chi này vào họ Asphodelaceae, phân họ Asphodeloideae. Trong phân họ, nó có thể được xếp vào bộ tộc Aloeae. Trong quá khứ, nó đã được phân cho họ Aloaceae (nay được bao gồm trong Asphodeloidae) hoặc một họ được mô tả rộng rãi là Liliaceae (họ hoa huệ). Cây Agave americana, đôi khi được gọi là “lô hội Mỹ”, thuộc họ Măng tây, một họ khác.

Cây lô hội trồng chậu 01

4. Hoa hồng môn (Anthurium)

Cây hồng môn thuộc họ ráy

Cây hồng môn Anthurium là một chi của khoảng 1.000 loài thực vật có hoa, chi lớn nhất của họ arum, họ Ráy. Các tên thông dụng chung bao gồm anthurium, tailflower, flamingo flower, và laceleaf. Chi này có nguồn gốc từ châu Mỹ, nơi nó phân bố từ miền bắc Mexico đến miền bắc Argentina và các vùng của Caribê.

Cây hồng môn Anthurium

5. Cây Aralia

Aralia hay spikenard, là một chi của họ Araliaceae, bao gồm 68 loài cây rụng lá hoặc thường xanh, cây bụi và thân thảo lâu năm. Chi này có nguồn gốc từ châu Á và châu Mỹ, với hầu hết các loài xuất hiện ở rừng núi. Thực vật Aralia có kích thước khác nhau, với một số loài thân thảo chỉ cao tới 50 cm, trong khi một số cây cao tới 20 mét.

Cây Aralia có lá lớn bipinnate (hợp chất kép) mọc thành cụm ở đầu thân hoặc cành của chúng; ở một số loài, lá được bao phủ bởi lông cứng. Thân của một số loài thân gỗ khá nhiều gai, như ở Aralia spinosa. Những bông hoa có màu trắng hoặc hơi xanh xuất hiện ở những bông hoa ở đầu cuối, và những quả mọng màu tím sẫm hình cầu rất được các loài chim ưa thích.

Các loài Aralia được sử dụng làm cây thực phẩm bởi ấu trùng của một số loài Lepidoptera, bao gồm cả ngọc lục bảo thông thường (Hemithea aestivaria). Có rất nhiều màu sắc của hoa aralia. Hoa chính là aralia trắng. Một số loài, đặc biệt là Aralia cordata, có thể ăn được và được trồng để làm thức ăn cho người.

Cây Aralia

6. Cây Arrowhead Plant (Hay còn gọi là Syngonium)

Thuộc họ ráy

Syngonium là một chi thực vật có hoa trong họ Araceae, có nguồn gốc từ rừng mưa nhiệt đới ở miền nam Mexico, Tây Ấn, Trung và Nam Mỹ. Chúng là loại dây leo thân gỗ mọc trên cây cao từ 10–20 m trở lên. Chúng có lá thay đổi hình dạng tùy theo giai đoạn phát triển của cây, và dạng lá trưởng thành thường nhiều thùy hơn dạng non thường thấy trên cây nhà nhỏ. Tên khoa học của chi bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp σύν (syn – plus, z) và γονή (gone – gonada) và dùng để chỉ buồng trứng hợp nhất của hoa cái.

Cây Arrowhead (cây Syngonium)

7. Cây Thu hải đường (Begonia)

Thuộc họ Thu Hải Đường

Thu hải đường là một chi thực vật có hoa lâu năm trong họ Thu hải đường. Chi này có hơn 2.000 loài thực vật khác nhau. Begonias có nguồn gốc từ khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới ẩm. Một số loài thường được trồng trong nhà làm cây cảnh trang trí trong nhà ở những nơi có khí hậu mát mẻ hơn. Ở những nơi có khí hậu mát mẻ hơn, một số loài được trồng ngoài trời vào mùa hè để có hoa màu sắc rực rỡ, có lá đài nhưng không có cánh hoa.

Cây Thu Hải đường Begonia

8. Cây Dứa cảnh (Bromeliad)

Cây dứa cảnh Bromediad, thuộc họ bìm bìm (the bromeliads) là một họ thực vật có hoa một lá mầm gồm 75 chi và khoảng 3590 loài đã biết có nguồn gốc chủ yếu ở châu Mỹ nhiệt đới, với một số loài được tìm thấy ở vùng cận nhiệt đới châu Mỹ và một số loài ở vùng nhiệt đới Tây Phi, Pitcairnia feliciana.

Nó nằm trong số các họ cơ bản trong bộ Poales và là họ duy nhất trong bộ có các ống vách ngăn và buồng trứng kém. Những buồng trứng kém hơn này đặc trưng cho Bromelioideae, một phân họ của Bromeliaceae. Họ này bao gồm cả thực vật biểu sinh, chẳng hạn như rêu Tây Ban Nha (Tillandsia usneoides) và các loài trên cạn, chẳng hạn như dứa (Ananas comosus).

Nhiều bromeliad có thể lưu trữ nước trong một cấu trúc được hình thành bởi các gốc lá chồng lên nhau chặt chẽ của chúng. Tuy nhiên, họ này đủ đa dạng để bao gồm các loài thủy sinh trong bể, loài Tillandsia biểu sinh lá xám chỉ thu thập nước từ các cấu trúc lá được gọi là trichomes và nhiều loài xương rồng sống trên sa mạc. Cây dứa cảnh lớn nhất là Puya raimondii, cao tới 3–4 mét khi sinh trưởng với cành hoa cao 9–10 mét và nhỏ nhất là tiếng Tây Ban Nha rêu.

Cây dứa cảnh bromeliad

9. Cây Đa búp đỏ (Burgundy Rubber, Ficus elastica)

Thuộc họ Vả

Ficusastica, cây đa búp đỏ, là một loài thực vật trong chi vả, có nguồn gốc từ các vùng phía đông Nam Á và Đông Nam Á. Nó đã được nhập tịch ở Sri Lanka, Tây Ấn và Bang Florida của Hoa Kỳ

Cây đa búp đỏ burgandy

10. Cây Xương rồng (Cactus)

Thuộc họ Cactaceae

Xương rồng là một thành viên của họ thực vật Cactaceae, một họ bao gồm khoảng 127 chi với khoảng 1750 loài đã biết thuộc bộ Caryophyllales. Từ “xương rồng”, theo tiếng Latinh, từ tiếng Hy Lạp cổ đại κάκτος, kaktos, một cái tên ban đầu được Theophrastus sử dụng cho một loài thực vật có gai mà danh tính của nó hiện nay vẫn chưa được xác định rõ ràng.

Xương rồng có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau. Hầu hết các loài xương rồng sống trong môi trường sống chịu ít nhất một số hạn hán. Nhiều con sống trong môi trường cực kỳ khô hạn, thậm chí còn được tìm thấy ở sa mạc Atacama, một trong những nơi khô hạn nhất trên trái đất. Xương rồng cho thấy nhiều khả năng thích nghi để bảo tồn nước.

Hầu hết tất cả các loài xương rồng đều là loài xương rồng, có nghĩa là chúng có các bộ phận dày và nhiều thịt thích nghi để chứa nước. Không giống như nhiều loài xương rồng khác, thân cây là phần duy nhất của hầu hết các loài xương rồng, nơi diễn ra quá trình quan trọng này. Hầu hết các loài xương rồng đều bị mất lá thật, chỉ giữ lại gai, đây là loại lá bị biến đổi nhiều.

Cũng như bảo vệ chống lại động vật ăn cỏ, gai giúp ngăn ngừa mất nước bằng cách giảm luồng không khí đến gần cây xương rồng và cung cấp một số bóng râm. Trong trường hợp không có lá, thân phình to thực hiện quá trình quang hợp. Xương rồng có nguồn gốc từ châu Mỹ, trải dài từ Patagonia ở phía nam đến các phần của miền tây Canada ở phía bắc — ngoại trừ Rhipsalis baccifera, cũng mọc ở châu Phi và Sri Lanka.

Cây xương rồng Cactus - list cây

11. Cây đuôi công (Calathea)

Thuộc họ Marantaceae

Cây đuôi công Calathea là một chi thực vật có hoa thuộc họ Marantaceae. Chúng thường được gọi là cây cầu nguyện (giống như họ hàng của chúng). Khoảng 200 loài trước đây được gán cho Calathea hiện thuộc chi Goeppertia. Có vài chục loài trong chi này. Có nguồn gốc từ châu Mỹ nhiệt đới, nhiều loài phổ biến làm cây trồng trong chậu do lá trang trí của chúng và ở một số loài, chùm hoa nhiều màu sắc. Các lá non và lá bắc có thể giữ lại các vũng nước, được gọi là phytotelmata, cung cấp môi trường sống cho nhiều loài động vật không xương sống.

Cây đuôi công Calathea

12. Cây ăn thịt (Carnivorous Plant)

Cây ăn thịt là thực vật lấy một số hoặc hầu hết các chất dinh dưỡng của chúng từ việc bẫy và tiêu thụ động vật hoặc động vật nguyên sinh, điển hình là côn trùng và các động vật chân đốt khác. Tuy nhiên, cây ăn thịt tạo ra năng lượng từ quá trình quang hợp. Cây ăn thịt đã thích nghi để phát triển ở những nơi đất mỏng hoặc nghèo dinh dưỡng, đặc biệt là nitơ, chẳng hạn như sa lầy chua.

Charles Darwin đã viết Cây ăn côn trùng, chuyên luận nổi tiếng đầu tiên về cây ăn thịt, vào năm 1875. Thực vật ăn thịt có thể được tìm thấy ở tất cả các lục địa ngoại trừ Nam Cực, cũng như nhiều đảo ở Thái Bình Dương.

Cây ăn thịt thực sự được cho là đã tiến hóa độc lập chín lần theo năm bậc khác nhau của thực vật có hoa, và được đại diện bởi hơn một chục chi. Phân loại này bao gồm ít nhất 583 loài thu hút, bẫy và giết con mồi, hấp thụ các chất dinh dưỡng có sẵn.Con số này đã tăng khoảng 3 loài mỗi năm kể từ năm 2000. Ngoài ra, hơn 300 loài thực vật ăn thịt trong một số chi thể hiện một số nhưng không phải tất cả các đặc điểm này. Một đánh giá năm 2020 đã phát hiện ra rằng khoảng một phần tư đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hành động của con người.

Cây ăn thịt Carnivorous - list cây

13. Cây Thiên điểu (Bird of Paradise)

Thuộc họ Strelitziaceae

Bird of Paradise thuộc chi Strelitzia, là một chi gồm năm loài cây lâu năm, có nguồn gốc từ Nam Phi. Nó thuộc họ thực vật Strelitziaceae. Chi này được đặt theo tên của Nữ hoàng Charlotte của Vương quốc Anh. Tên phổ biến của chi này là hoa / thực vật chim thiên đường hay thường gọi là Cây Thiên điểu, vì hoa của nó giống với loài chim thiên đường. Ở Nam Phi, nó thường được gọi là hoa hạc và được in trên mặt sau của đồng 50 xu. Nó là biểu tượng hoa của Thành phố Los Angeles; hai trong số các loài, Strelitzia nicolai và Strelitzia reginae, thường được trồng làm cây nhà.

Cây thiên điểu Bird of Paradise

14. Cây Croton

Croton là một chi thực vật có hoa trong họ Cành, Euphorbiaceae. Các loài thực vật thuộc chi này đã được Georg Eberhard Rumphius mô tả và giới thiệu đến người châu Âu. Tên phổ biến của chi này là rushfoil và croton, nhưng tên gọi sau cũng dùng để chỉ Codiaeum variegatum. Tên chung bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp κρότος (krótos), có nghĩa là “con ve” và dùng để chỉ hình dạng của hạt của một số loài nhất định.

Cây Croton - list cây

15. Thiết mộc lan, Phát tài, Phất dụ (Dracaena)

Cây thuộc họ Asparagaceae

Dracaena (/ drəˈsiːnə / là một chi gồm khoảng 120 loài cây gỗ và cây bụi mọng nước. Các chi được chấp nhận trước đây là Pleomele và Sansevieria hiện được đưa vào Dracaena.

Trong hệ thống phân loại APG IV, nó được xếp vào họ Asparagaceae, phân họ Nolinoideae (trước đây là họ Ruscaceae). Trước đây nó cũng đã được tách ra (đôi khi với Cordyline) vào họ Dracaenaceae hoặc được xếp vào họ Agavaceae (nay là Agavoideae).

Tên cây huyết dụ có nguồn gốc từ dạng La Mã hóa của tiếng Hy Lạp cổ đại δράκαινα – drakaina, “rồng cái”. Phần lớn các loài có nguồn gốc từ châu Phi, nam châu Á đến bắc Úc, với hai loài ở vùng nhiệt đới Trung Mỹ.

Cây Phát tài Dracaena list cây

 

16. Cây dương xỉ (Fern)

Họ Polypodiopsida

Dương xỉ (Polypodiopsida hoặc Polypodiophyta / ˌpɒliˌpɒdiˈɒfɪtə, -oʊfaɪtə /) là một thành viên của nhóm thực vật có mạch (thực vật có xylem và phloem) sinh sản qua bào tử và không có hạt cũng như hoa.

Chúng khác với rêu và các loài thực vật bryophytes khác ở chỗ có mạch, tức là có các mô chuyên biệt để dẫn nước và chất dinh dưỡng và có chu kỳ sống trong đó giai đoạn sinh bào tử phân nhánh là giai đoạn chiếm ưu thế. Dương xỉ có những chiếc lá phức tạp được gọi là megaphylls, phức tạp hơn những bộ vi lá của bọ gậy. Hầu hết các loài dương xỉ là dương xỉ leptosporangiate.

Chúng tạo ra các đầu cuộn dây có thể cuộn lại và mở rộng thành các lá. Nhóm này bao gồm khoảng 10.560 loài còn tồn tại được biết đến. Dương xỉ được định nghĩa ở đây theo nghĩa rộng, là tất cả các loài thuộc bộ Polypodiopsida, bao gồm cả họ dương xỉ thuộc họ bạch truật (Polypodiidae) và họ dương xỉ eusporangiate, nhóm sau bao gồm có đuôi ngựa hoặc cói, dương xỉ vòi, dương xỉ marattioid và dương xỉ ophioglossoid.

17. Cây sung (Ficus)

Họ Moraceae

Ficus (/ ˈfaɪkəs / hoặc / ˈfiːkəs /) là một chi gồm khoảng 850 loài cây thân gỗ, cây bụi, dây leo, thực vật biểu sinh và thực vật bậc hai trong họ Moraceae. Được gọi chung là cây sung hoặc quả sung, chúng có nguồn gốc ở khắp các vùng nhiệt đới với một số loài mở rộng đến vùng ôn đới bán ấm áp.

Quả sung (F. carica) là một loài ôn đới có nguồn gốc từ Tây Nam Á và khu vực Địa Trung Hải (từ Afghanistan đến Bồ Đào Nha), đã được trồng rộng rãi từ thời cổ đại để lấy quả, còn được gọi là quả sung. Quả của hầu hết các loài khác cũng có thể ăn được mặc dù chúng thường chỉ có giá trị kinh tế địa phương hoặc được ăn như một loại thực phẩm bụi. Tuy nhiên, chúng là nguồn thức ăn vô cùng quan trọng đối với động vật hoang dã. Quả sung cũng có tầm quan trọng văn hóa đáng kể trên khắp các vùng nhiệt đới, vừa là đối tượng thờ cúng vừa có nhiều mục đích sử dụng thực tế.

18. Cây bàng singapore (Fiddle Leaf Fig)

19. Cây lá cẩm nhung, hặc lá may mắn (Fittonia)

Họ Acanthus

Cây cẩm nhung Fittonia là một chi thực vật có hoa trong họ Acanthus Acanthaceae, có nguồn gốc từ rừng mưa nhiệt đới ở Nam Mỹ, chủ yếu là Peru.

Loại được trồng phổ biến nhất là F. albivenis và các giống cây trồng của nó. Chúng đang phát tán những cây lâu năm thường xanh cao 10–15 cm. Chúng có những chiếc lá xanh tươi tốt với những đường gân nổi từ màu trắng đến hồng đậm và có một lớp lông tơ ngắn bao phủ thân cây. Các chồi nhỏ có thể xuất hiện sau một thời gian mà thân tách ra thành lá. Hoa nhỏ với màu trắng đến trắng nhạt.

Cây được giữ tốt nhất ở nơi ẩm ướt với ánh sáng mặt trời dịu nhẹ và nhiệt độ trên 13 ° C, do đó ở những vùng ôn đới chúng phải được trồng làm cây trồng trong nhà. Nếu không có nước trong một vài ngày, loài cây này được biết đến là “yếu ớt” nhưng dễ dàng hồi sinh chỉ với một lần tưới nước nhanh chóng. Thói quen lan rộng của nó khiến nó trở thành lớp phủ lý tưởng.

Cây cẩm nhung Fittonia

20. Các loại thảo mộc (herb)

Nói chung, thảo mộc là một nhóm thực vật phân bố rộng rãi và phổ biến, không bao gồm rau và các loại thực vật khác được tiêu thụ để làm chất dinh dưỡng đa lượng, với các đặc tính mặn hoặc thơm được sử dụng để tạo hương vị và trang trí thực phẩm, cho mục đích y học hoặc làm nước hoa.

Sử dụng ẩm thực thường phân biệt các loại thảo mộc với gia vị. Các loại thảo mộc thường đề cập đến các bộ phận lá xanh hoặc hoa của cây (tươi hoặc khô), trong khi các loại gia vị thường được sấy khô và sản xuất từ ​​các bộ phận khác của cây, bao gồm hạt, vỏ, rễ và quả.

Các loại thảo mộc có nhiều cách sử dụng bao gồm ẩm thực, y học, và trong một số trường hợp là tinh thần. Cách sử dụng chung của thuật ngữ “thảo mộc” khác nhau giữa các loại thảo mộc ẩm thực và dược liệu; trong việc sử dụng y học hoặc tâm linh, bất kỳ bộ phận nào của cây có thể được coi là “thảo mộc”, bao gồm lá, rễ, hoa, hạt, vỏ rễ, vỏ trong (và cambium), nhựa và pericarp.

Từ “herb” được phát âm là / hɜːrb / trong tiếng Anh Khối thịnh vượng chung, nhưng / ɜːrb / là phổ biến ở những người nói tiếng Anh ở Bắc Mỹ và những người từ các vùng khác nơi xảy ra hiện tượng h-drop. Trong thực vật học, danh từ “thảo mộc” dùng để chỉ “thực vật không tạo ra thân gỗ”, và tính từ “thân thảo” có nghĩa là “giống cây thảo”, dùng để chỉ các bộ phận của cây có màu xanh lục và kết cấu mềm.

 

Leave a Reply

error: Content is protected !!